Theo Chiến lược Phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021 – 2030, định hướng đến năm 2050, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Trong giai đoạn 2021-2030, chỉ đầu tư thêm các nhà máy có công suất từ 5,000 tấn clinker/ngày trở lên (hiện nay công suất trung bình một dự án là dưới 2,500 tấn clinker/ngày). Đến năm 2025, nhà máy xi măng công suất nhỏ hơn 2,500 tấn clinker/ngày bắt buộc phải đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm năng lượng, đáp ứng tiêu chuẩn môi trường. Đồng thời, tỷ lệ sử dụng clinker trong sản xuất xi măng cũng được giảm xuống.
Từ 2020 đến nay, chỉ có thêm 2 dây chuyền mới đi vào vận hành: dự án Xi măng Tân Thắng (Nghệ An); và dự án Xi măng Long Sơn – dây chuyền 3 tại Thanh Hóa. Và đến cuối năm nay, dự kiến cũng chỉ có 1 dự án dây chuyền 4 của Xi măng Long Sơn đi vào vận hành. Ngoài ra, có 1 số dự án trong Quy hoạch ngành đã khởi công và dự kiến đi vào sau 2022 là:
II. Tiêu thụ
Theo Hiệp Hội Xi măng, tổng sản lượng tiêu thụ 5 tháng đầu năm 2021 toàn ngành đạt 44,161 nghìn tấn, tăng 16.2% so với năm 2020. Trong đó, riêng sản lượng xuất khẩu đã chiếm 41% (đạt 18,127 nghìn tấn) tăng đến 39%, trong khi tiêu thụ nội địa chiếm 59 % (đạt 26,034 nghìn tấn) chỉ tăng nhẹ khoảng 4% so với cùng kỳ năm 2020 do lĩnh vực xây dựng trong nước bị đình trệ ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 tái bùng phát từ cuối tháng 4.
Thấy 5 tháng đầu năm 2021 khu vực miền Nam có mức tiêu thụ tăng mạnh nhất cả nước với tốc độ tăng trưởng 12.2% so với cùng kỳ năm 2020 và cao hơn mức trung bình cả nước 4.4%. Tồn kho cả nước trong 5 tháng còn khoảng 2.8 triệu tấn, chủ yếu là clinker tương đương từ 10-15 ngày sản xuất.
Trong những năm gần đây, xuất khẩu lại tiếp tục là động lực tăng trưởng của ngành Xi măng. Xuất khẩu 6 tháng đầu năm vượt kế hoạch, tăng trưởng cả về sản lượng và giá bán. Cụ thể, nửa đầu năm 2021, ngành xi măng xuất khẩu gần 21 triệu tấn sản phẩm xi măng và clinker (gần bằng lượng xuất khẩu cả năm của năm 2017) trị giá 808 triệu USD, tăng 27% về lượng và 31% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020.
Trong đó, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ đến ~50% sản lượng xuất khẩu xi măng và clinker, sở dĩ xuất khẩu xi măng tăng mạnh là nhờ Trung Quốc thay đổi chính sách đầu tư đối với ngành này. Cụ thể, Trung Quốc giới hạn và giảm dần các nhà máy xi măng (chủ yếu vì mục đích môi trường) thay vào đó tăng nhập khẩu từ các quốc gia khác, đặc biệt là Việt Nam. Tuy nhiên, xét theo từng tháng thì sản lượng xuất khẩu đang có xu hướng giảm dần từ tháng 4 đến nay, chủ yếu là từ nguồn xi măng xuất khẩu sang Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang quốc gia này đã bắt đầu thu hẹp từ tháng 5. Ngoài ra, thị phần xuất khẩu sang các thị trường lớn đều có mức tăng tốt, ngoại trừ Đài Loan (giảm gần 80% về cả lượng và giá trị).
III. Về giá bán trong nước
Trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát làm cho nhiều ngành hàng bị “chao đảo”, đặc biệt là các loại vật liệu xây dựng như thép, gạch, ốp lát, cát,.. đều tăng giá mạnh trong Quý 1-2021, tuy nhiên giá xi măng dường như không có sự thay đổi đáng kể.
Tuy nhiên, do không chịu được áp lực chi phí tăng cao và để đảm bảo hiệu quả cho quá trình sản xuất, từ Tháng 4 năm 2021 nhiều đơn vị đã tăng giá bán xi măng trong nước, tăng thêm từ 30,000-40,000 VND/tấn (~3-5%) cho tất cả các loại xi măng. Một số doanh nghiệp tăng giá bán sau đây:
IV. Triển vọng và thực trạng
Theo phân tích và dự báo của một số chuyên gia trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, tỷ suất lợi nhuận ngành xi măng có thể tiếp tục bị suy giảm do công suất và chi phí nhiên liệu tăng. Cụ thể, trong năm 2021, công suất trong nước ước tính tăng khoảng 7 triệu tấn, tương đương 7% từ các dây chuyền sản xuất mới đi vào hoạt động từ cuối năm 2020 và đầu năm 2021.